Quá trình Trận_Đại_Lăng_Hà

Vây thành

Ngày 27 tháng 7 (24 tháng 8 DL), Hoàng Thái Cực tự cầm quân, từ Thẩm Dương xuất phát, giữa trưa vượt Liêu Hà. Ngày 1 tháng 8 (27 tháng 8 DL), Hoàng Thái Cực giải chiếu khoản đãi binh sĩ Mông Cổ tham chiến, chia quân làm 2: bọn Bối lặc Đức Cách Loại, Nhạc Thác, A Tể Cách soái 2 vạn quân, đi qua Nghĩa Châu đóng giữ ở khoảng giữa Cẩm Châu và Đại Lăng Hà, cắt đứt liên lạc của 2 nơi này; còn mình tự soái đại quân đi qua Hắc Sơn, Quảng Ninh, chính diện bức đến thành Đại Lăng Hà.

Ngày 6 tháng 8 (1 tháng 9 DL), 2 lộ đại quân hội họp dưới thành, Hoàng Thái Cực nói: "Đánh thành e tổn thất nhiều sĩ tốt, không bằng vây khốn lâu dài. Quân trong thành ra, ta giao chiến; quân cứu viện đến, ta đón đánh." [3] Rồi chia các Bối lặc, các tướng ra vây thành: Lãnh Cách Lý nhận từ phía bắc sang tây, Đạt Nhĩ Cáp nhận từ phía bắc sang đông, A Ba Thái tiếp ứng cho họ; Giác La Sắc Lặc nhận phía chính nam, Mãng Cổ Nhĩ Thái, Đức Cách Loại tiếp ứng; Thiên Cổ nhận từ phía nam sang tây, Tế Nhĩ Cáp Lãng tiếp ứng; Vũ Nạp Cách nhận từ phía nam sang đông, Khách Khắc Đốc Lễ nhận từ phía đông sang bắc, Đa Đạc tiếp ứng cho họ; Y Nhĩ Đăng nhận từ phía đông sang nam, Đa Nhĩ Cổn tiếp ứng; Hòa Thạc Đồ nhận từ phía tây sang bắc, Đại Thiện tiếp ứng; Ngạc Bản Đoái nhận phía chính tây, Diệp Thần nhận từ phía tây sang nam, Nhạc Thác tiếp ứng cho họ. Các Bối lặc Mông Cổ đều soái bộ hạ lấp đầy các khoảng trống. Đông Dưỡng Tính soái Ô Chân (nghĩa là nặng) Siêu Cáp (nghĩa là quân hay binh) chở pháo vượt Cẩm Châu đại đạo mà đặt doanh trại. Các tướng Kim chia ra, quanh thành đào hào, sâu rộng đều đến cả trượng. Ngoài hào xây tường, cao đến cả trượng, làm bễ nghễ (đầu tường hình răng cưa); cách tường 5 trượng về phía sau lại làm hào, rộng 5 thước, sâu 7 thước 5 tấc. Ngoài doanh đều đào hào, sâu rộng 5 thước [3].

Quân Minh ở trên thành nhìn xuống, chỉ thấy "nghịch nô vây tầng tầng lớp lớp, liên tiếp đào bốn con hào, khúc khuỷu khó đi, khí giới – dụng cụ sẵn sàng, tính toán rất giảo quyệt vậy!" [2] Lương thực trong thành chỉ đủ dùng trong vài ngày, Tổ Đại Thọ muốn đột vây, nhưng không làm nổi, đành ngồi chờ viện binh [2][6]. Các tướng Kim vừa đánh vừa phủ dụ các đài, bảo ngoài thành, lần lượt hạ được tất cả. Quân Minh ra thành tìm củi, quân Kim bắt được thì xẻo tai [3].

Vây hơn tháng, Hoàng Thái Cực muốn tiêu hao sanh lực của quân giữ thành, giả cách rằng viện quân Cẩm Châu đến. Đại Thọ thấy ở nơi cách thành 10 dặm có cờ dựng súng nổ, bụi mù bốc cao, cho là thật, bèn đưa quân ra đánh đài ở góc tây nam thành. Thiên Cổ, Diệp Thần cùng các Bối lặc Mông Cổ đốc quân chống lại, Hoàng Thái Cực tự soái quân Ba Nha Lạt (tinh binh được tuyển chọn từ con em quý tộc Kiến Châu Nữ Chân) từ trên núi ập xuống. Đại Thọ biết là trúng kế, vội thu binh vào thành, tử thương hơn trăm người, từ đó không dám ra nữa [3].

Diệt viện

Ngày 16 tháng 8 (11 tháng 9 DL), 2000 viện quân nhà Minh từ Tùng Sơn đến, bị quân Kim của A Sơn, Lao Tát, Đồ Lỗ Thập đánh bại. Ngày 26 (tức ngày 21 DL), Tổng binh Ngô Tương, Tống Vĩ đưa 6000 quân từ Cẩm Châu đến, gặp buổi sáng sương mù mờ mịt, bị bọn Bối lặc A Tế Cách đánh bại. Quân Minh bị bắt 1 viên Du kích, mất sạch ngựa, xe [2][3]. Tháng 9, Liêu Đông tuần phủ Khâu Hòa Gia, Tổng binh Ngô Tương, Tống Vĩ hợp 6000 [2] đến 7000 [3] quân đến cứu, bị Hoàng Thái Cực tự soái Bối lặc Đa Đạc cùng bọn Đồ Lỗ Thập đưa hơn 200 quân Ba Nha Lạt vượt Tiểu Lăng Hà, nhân lúc gió lớn thổi cát bụi mù trời mà đánh bại quân Minh [3].

Ngày 24 tháng 9 (19 tháng 10 DL), Giám quân đạo Trương Xuân cùng bọn Tương, Vĩ hợp 4 vạn kỵ bộ đến cứu, vượt Tiểu Lăng Hà, kết hợp chiến xa và đại pháo, bày trận chặt chẽ. Đôi bên đối trận cách thành Đại Lăng Hà 15 dặm, quân Bát Kỳ tỏ ra lúng túng, trong khi chiến xa của quân Minh từng bước tiến lên rất chắc chắn, không ngờ cũng là từng bước tiến vào tầm bắn của 40 cỗ Hồng y đại pháo mà Đông Dưỡng Tính đã đặt ở phía đông trận địa của quân Minh. Đông Dưỡng Tính cho nổ pháo, quân Minh lập tức rối loạn, Hoàng Thái Cực cùng bọn Bối lặc Đại Thiện đưa 2 vạn người xông lên [2][3].

Hoàng Thái Cực soái kỵ binh ở 2 cánh xộc vào trận địa của quân Minh, bắn tên như mưa. Kỵ binh Kim xông pha ngang dọc, pháo của quân Minh mất tác dụng. Quân Minh gặp bất lợi, Ngô Tương chạy đầu tiên. Mây đen giăng đầy trời, gió từ phía tây thổi lại, Trương Xuân dùng hỏa công, thế lửa rất mạnh, buộc quân Kim dừng lại, chợt có mưa rào, gió đổi hướng về phía quân Minh, khiến quân Minh càng loạn. Quân Kim ở cánh phải phá được trận địa của Trương Xuân, đuổi theo hơn 30 dặm, bắt được Xuân cùng bọn phó tướng Trương Hoằng Mô, Dương Hoa Trưng, Tiết Đại Hồ, tham tướng Khương Tân hơn 30 người, chém bọn phó tướng Trương Cát Phủ, Mãn Khố, Vương Chi Kính, bọn Ngô Tương, Tống Vĩ vài mươi người trốn thoát.

Chiêu hàng

Vừa đến dưới thành, Hoàng Thái Cực mệnh cho bắn thư vào trong thành, kêu gọi binh sĩ Mông Cổ ra hàng. Vây hơn 10 ngày, Hoàng Thái Cực gởi thư cho Tổ Đại Thọ, nhắc lại việc hòa nghị của Viên Sùng Hoán ngày trước, Đại Thọ không trả lời [3].

Tháng 10, Hoàng Thái Cực lại sai sứ chiêu hàng Đại Thọ, rồi mệnh cho bọn Hoằng Mô viết thư khuyên hàng. Đại Thọ soái quan, tướng gặp sứ giả ở ngoài thành, nói: "Ta thà chết ở đây, chứ không hàng!" Hoàng Thái Cực gởi thư cho Đại Thọ, hứa sẽ không giết. Có kẻ tên là Vương Thế Long [3] hay Trương Dực Phụ [2], trèo thành ra hàng, nói trong thành lương cạn, các hàng quán chứa đầy xác chết, ngựa đã bị mổ hết, người phải ăn thịt người. Khi Trương Xuân đại chiến với quân Kim, Tổ Đại Thọ vẫn án binh bất động, không thể chỉ vì Đại Thọ bị lừa một lần đến nỗi khiếp sợ không dám ra, mà là quân trong thành không còn đủ sức để tham chiến nữa.

Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10 (tức 31 tháng 10 đến 2 tháng 11 DL), Hoàng Thái Cực trước sau gởi thư cho bọn Tổ Đại Thọ, Hà Khả Cương, phó tướng Trương Tồn Nhân, khuyên bọn họ mau ra hàng. Nhưng Tổ Đại Thọ và bộ hạ vẫn kiên trì chống lại, nguyên nhân trực tiếp là hành động tàn sát 4 thành Vĩnh Bình của A Mẫn năm trước. Trong thư viết tay, Hoàng Thái Cực đã giải thích: "Xưa kia xác thực có việc giết dân Liêu, ta rất lấy làm buồn bã hối hận, bọn ta từ lâu đã không làm như vậy nữa. Còn việc đồ thành Vĩnh Bình là hành vi của Nhị Bối lặc A Mẫn, hắn vì việc này mà phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc, hy vọng ngươi không giữ mãi thiên kiến này." Nhưng bọn Đại Thọ không thể tin được. Ngoài ra, còn vì Hà Khả Cương nhận xét: Hoàng Thái Cực đã đến Bắc Kinh rồi lại quay về, rõ là không có hùng tâm thống nhất thiên hạ, chẳng hơn gì một kẻ cường đạo chiếm núi xưng vương. Quân Kim chiến đấu cũng vì một chữ "thưởng", đi theo Hoàng Thái Cực sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp gì [2].

Kết cục

Tham tướng Vương Cảnh dâng đài Vu Tử Chương đầu hàng. Quân Kim hạ được các bảo ở cạnh thành, lấy đi lương khô, sửa sang hào lũy, củng cố vòng vây. Tổ Đại Thọ không còn chút cơ may nào để thoát ra. Hoàng Thái Cực sai Khương Tân đi chiêu hàng, Đại Thọ gặp Tân ở ngoài thành, sai du kích Hàn Đống đưa tiễn. Đống trở về nói với ông rằng quân Kim rất nghiêm chỉnh, Đại Thọ bắt đầu nghĩ đến việc đầu hàng.

Ngày 25 tháng 10 (tức 18 tháng 11 DL), Tổ Đại Thọ yêu cầu tướng Kim là Thạch Đình Trụ đến bàn bạc việc đầu hàng. Buổi chiều cùng ngày, Tổ Khả Pháp (con nuôi), Tổ Trạch Nhuận (cháu trai, trước khi Đại Thọ có con trai từng được chọn làm người kế tự), Lưu Thiên Lộc, Trương Tồn Nhân đến doanh Kim làm con tin. Hoàng Thái Cực sai Khố Nhĩ Triền, Long Thập, Ninh Hoàn Ngã cùng đi với Đình Trụ. Đình Trụ vượt hào gặp Đại Thọ, Đại Thọ nói rằng vợ con mình đều ở Cẩm Châu, muốn về đấy đón gia quyến, rồi sẽ tìm cách dâng thành cho quân Kim [3].

Khi ấy các tướng ở Đại Lăng Hà đều đồng ý đầu hàng, chỉ có phó tướng Hà Khả Cương không theo, Tổ Đại Thọ lệnh cho đưa ra ngoài thành mà giết đi [3]. Sứ giả của Đại Thọ đưa thư thề nguyền đến, trên thư có tên Tổng binh quan Tổ Đại Thọ, phó tướng Lưu Thiên Lộc, Trương Tồn Nhân, Tổ Trạch Hồng, Tổ Trạch Nhuận, Tổ Khả Pháp, Tào Cung Thành, Hàn Đại Huân, Tôn Định Liêu, Bùi Quốc Trân, Trần Bang Tuyển, Lý Vân, Đặng Trường Xuân, Lưu Dục Anh, Đậu Thừa Vũ, tham tướng, du kích Ngô Lương Phụ, Cao Quang Huy, Lưu Sĩ Anh, Thịnh Trung, Tổ Trạch Viễn, Hồ Hoằng Tiên, Tổ Khắc Dũng, Tổ Bang Vũ, Thi Đại Dũng, Hạ Đắc Thắng, Lý Nhất Trung, Lưu Lương Thần, Trương Khả Phạm, Tiêu Vĩnh Tộ, Hàn Đống, Đoạn Học Khổng, Trương Liêm, Ngô Thái Thành, Phương Nhất Nguyên, Đồ Ứng Kiền, Trần Biến Vũ, Phương Hiến Khả, Lưu Vũ Nguyên, Dương Danh Thế. Hoàng Thái Cực soái các Bối lặc thề rằng các tướng Minh dâng thành Đại Lăng Hà đầu hàng, quan, tướng, binh, dân trong thành sẽ không bị làm hại. Thề xong, Hoàng Thái Cực sai Long Thập báo với Đại Thọ. Đại Thọ ngay hôm ấy soái các tướng mở tướng thành, đến thẳng doanh Kim gặp Hoàng Thái Cực. Hai người vui vẻ nói chuyện rất lâu, bàn bạc kế hoạch chiếm lấy Cẩm Châu, được ban các thứ mũ lông cáo đen, áo khoác lông chồn, thắt lưng ánh vàng, giày gấm đoạn, yên ngựa được chạm khắc, ngựa trắng,… Đó là ngày Mậu Thìn (28) tháng 10 (tức 21 tháng 11 DL).

Hoàng Thái Cực lệnh cho quan, tướng, binh, dân trong thành Đại Lăng Hà cạo đầu. Khi xưa đắp thành, quân sĩ, lao dịch, thương nhân có hơn 3 vạn, nay chỉ còn 11682 người; 32 thớt ngựa. Quân Thanh phá hủy thành Đại Lăng Hà rồi rút lui. Đến Thẩm Dương, Hoàng Thái Cực mệnh cho Đạt Hải an ủi các hàng tướng, ban nhà cửa cho con cháu của Đại Thọ (lúc này Tổ Đại Thọ đã vào Cẩm Châu), đãi ngộ mọi người hậu hĩ.

Liên quan